Chủ Nhật, 14 tháng 5, 2017

Thứ Bảy, 13 tháng 5, 2017

Chủ Nhật, 7 tháng 5, 2017

(Kênh giáo dục)Về đâu những dự án thí điểm hàng ngàn tỉ? (*): 87,6 triệu USD, thí điểm rồi dừng!

Dự án Mô hình trường học mới tại Việt Nam (VNEN) được triển khai từ tháng 1-2013 với tổng số vốn được phê duyệt là 87,6 triệu USD, gồm vốn viện trợ không hoàn lại của Tổ chức Hỗ trợ phát triển giáo dục toàn cầu 84,6 triệu USD và vốn đối ứng trong nước 3 triệu USD. Một chương trình tưởng chừng là lý tưởng và được triển khai rầm rộ trong cả nước nhưng rất nhiều trường sau một thời gian thí điểm đã phải kêu cứu, xin không tiếp tục áp dụng.

Đồng loạt xin "thoát"

Mô hình trường học mới khởi nguồn từ Colombia những năm 1995-2000 để dạy học sinh trong những lớp ghép ở vùng miền núi khó khăn theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm. Sau hơn 3 năm triển khai tại Việt Nam (từ năm học 2012-2013), VNEN đã nhận được rất nhiều phản ứng của phụ huynh vì chất lượng học tập của con em đi xuống.

Ngay trước năm học 2016-2017, cho rằng chất lượng học tập của con em ngày càng sa sút, tập thể phụ huynh khối 7 Trường THCS Chu Văn An (huyện Hương Khê, tĩnh Hà Tĩnh) đã đồng loạt ký đơn kiến nghị khẩn thiết gửi chủ tịch UBND tỉnh và các cơ quan chức năng xin cho con em được thoát học mô hình VNEN. Không chỉ Hà Tĩnh, nhiều địa phương như Nghệ An, Hà Giang, Bà Rịa - Vũng Tàu… cũng đã có văn bản dừng việc mở rộng dự án này như kế hoạch.

Về đâu những dự án thí điểm hàng ngàn tỉ? (*): 87,6 triệu USD, thí điểm rồi dừng! - Ảnh 1.

Học sinh Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi (TP HCM) trong một giờ học theo mô hình VNEN Ảnh: TẤN THẠNH

Vậy lý do gì một mô hình với tên gọi trường học mới lại gây ra những phản ứng dữ dội như trên?

Theo ông Lê Ngọc Điệp - nguyên Trưởng Phòng Giáo dục tiểu học, Sở Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) TP HCM, một trong những người tham gia triển khai mô hình ngay từ đầu tại TP - phải ghi nhận ý tốt của Bộ GD-ĐT là tận dụng nguồn kinh phí không hoàn lại để học sinh tiếp cận mô hình giáo dục có nét tương đồng. Ông Điệp cho biết lúc này, rất nhiều địa phương và các nhà giáo không biết thỏa thuận của phía tài trợ và Bộ GD-ĐT là áp dụng hoàn toàn hay từng phần của mô hình.

"Kể cả kinh phí tài trợ, chúng tôi cũng không được biết. Lúc đầu triển khai tại TP HCM, chúng tôi chỉ chọn 1 trường là Trường Tiểu học Tân Thông Hội (huyện Củ Chi) và kinh phí họ cũng chuyển trực tiếp cho trường" - ông Điệp nhớ lại.

Dù là một trường tiểu học ở khu vực ngoại thành, với sĩ số ít nhưng qua quá trình triển khai VNEN, ông Điệp kể đã kiến nghị TP HCM và cả Bộ GD-ĐT rằng mô hình này rất khó thực hiện, chỉ nên cho các địa phương vận dụng chứ không thể áp dụng. "Chúng ta chỉ có thể vận dụng những ưu điểm của mô hình, những cái phù hợp và có lợi cho học sinh - khác hoàn toàn với việc bê nguyên xi vào giảng dạy và thực hiện. Nếu TP HCM áp dụng hoàn toàn nghĩa là một bước thụt lùi của giáo dục" - ông Điệp nhìn nhận.

Chạy theo số lượng

Theo đánh giá của các chuyên gia, để triển khai mô hình cần có các điều kiện đi kèm. Trong khi đó, những yếu tố cơ bản phục vụ cho việc triển khai VNEN rộng rãi như cơ sở hạ tầng (trường, lớp, sân chơi, bãi tập…) chưa bảo đảm đồng bộ về chất lượng và số lượng.

Thêm vào đó, việc đổi mới chưa đi theo một lộ trình phù hợp. Đội ngũ nhà giáo tham gia mô hình 100% là những người quen với nếp dạy truyền thống nên dù có được tập huấn cũng còn nhiều bỡ ngỡ. Trường lớp, bàn ghế, sĩ số... vốn được thiết kế cho mô hình dạy học truyền thống nên khi đưa vào sử dụng để dạy học theo VNEN không thể đáp ứng tốt được. Sự bất cập với điều kiện đặc thù về giáo dục, kinh tế, văn hóa, thổ nhưỡng vùng miền đã khiến việc triển khai VNEN gặp nhiều trở ngại.

Khi nói về VNEN, nhiều chuyên gia giáo dục cho rằng đó là cách làm quá nóng vội, chắp vá. Thậm chí, từ ý tốt là xin được nguồn kinh phí không hoàn lại nhưng trở thành tham lam khi triển khai mập mờ, không hiệu quả, gây nên phản ứng dữ dội.

Hiệu trưởng một trường tiểu học tại TP HCM cho hay nếu quy định phải áp dụng thì trường áp dụng, còn nếu được tự nguyện thì trường sẽ không thực hiện. Bởi lẽ, mô hình này bộc lộ nhiều hạn chế khi áp dụng ở một TP lớn. Đơn cử là việc giảng dạy và tổ chức lớp học theo khuôn mẫu không phát huy khả năng sáng tạo của giáo viên, hoạt động của học sinh cũng rất rập khuôn. Ngoài ra, thời đại công nghệ thông tin phát triển nhưng mô hình VNEN hầu như không nhắc tới việc sử dụng các thiết bị.

Ông Lê Ngọc Điệp cho rằng chính cách triển khai vội vã, những bước chuẩn bị cập rập, không tính toán đã dẫn đến sự thất bại của VNEN. Tính vội vã thể hiện ở chỗ công tác tập huấn không hiệu quả, giáo viên không thể một sớm một chiều thay đổi, phụ huynh không biết được con họ được gì từ mô hình này.

Triển khai rầm rộ, kết thúc âm thầm

Tháng 10-2016, Bộ GD-ĐT đã có một báo cáo ngắn gọn về một số thông tin liên quan đến VNEN. Theo đó, bộ nhìn nhận khó khăn của dự án là thời gian triển khai ngắn, phạm vi triển khai rộng khắp các tỉnh, thành cả nước với trình độ quản lý và tổ chức không đồng đều ở các cấp khác nhau. VNEN phải triển khai đổi mới đồng bộ trong khi điều kiện áp dụng tại một số trường học ở Việt Nam chưa chuẩn bị tốt về cơ sở vật chất, đội ngũ, dẫn tới hiệu quả chưa được như mong muốn. Việc áp dụng mô hình chưa linh hoạt và chưa phù hợp với điều kiện của một số địa phương…

Bộ GD-ĐT cũng thừa nhận lộ trình và bước đi triển khai VNEN chưa phù hợp, cán bộ quản lý và giáo viên chưa được chuẩn bị chu đáo, một bộ phận ngại đổi mới hoặc áp dụng mô hình một cách máy móc. Việc triển khai nóng vội, áp dụng ngay cả ở những trường còn khó khăn về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, sĩ số lớp học đông... Điều đó dẫn đến việc tổ chức hoạt động giáo dục chưa đạt được hiệu quả mong muốn, gây ra những băn khoăn trong dư luận.

Một giải pháp rõ ràng cho hàng ngàn ngôi trường thực hiện thí điểm VNEN khi đề án kết thúc cũng hoàn toàn không được Bộ GD-ĐT đưa ra. Báo cáo của bộ chỉ buông hờ một câu ngắn gọn: "Khuyến khích các cơ sở giáo dục đang triển khai Mô hình trường học mới tiếp tục triển khai trên cơ sở tự nguyện, bảo đảm đạt hiệu quả thiết thực và duy trì trong suốt cấp học vì quyền lợi của học sinh".

Theo số liệu từ Dự án VNEN, năm học 2011-2012, Bộ GD-ĐT triển khai thí điểm mô hình này tại 24 trường học thuộc 12 huyện ở 6 tỉnh. Năm học 2012-2013, triển khai trên diện rộng và thí điểm tại 1.447 trường tiểu học trên 63 tỉnh, thành trong cả nước. Năm học 2015-2016, 4.177 trường tiểu học ở 63 tỉnh, thành triển khai thực hiện mô hình này.

Một chuyên gia giáo dục cho rằng ở nước ngoài, lãnh đạo ngành giáo dục sẵn sàng xuống đường phát tờ rơi để giải thích về những đổi mới để mọi người đều biết và thực hiện. Còn ở Việt Nam, chúng ta cứ thế triển khai rồi im lặng kết thúc. Cứ cho rằng số tiền 84,6 triệu USD kia là miễn phí thì chúng ta đã sử dụng quá lãng phí mà không mang lại lợi ích thật sự, biến học sinh của hơn 4.000 trường tiểu học trở thành đối tượng thí nghiệm trong một giai đoạn rồi sau đó ra sao không cần biết!

Về đâu những dự án thí điểm hàng ngàn tỉ? (*): 87,6 triệu USD, thí điểm rồi dừng! - Ảnh 2.

(*) Xem Báo Người Lao Động từ số ra ngày 5-5

Kỳ trước: Về đâu những dự án thí điểm hàng ngàn tỉ?

Kỳ tới: Đề án ngoại ngữ 9.300 tỉ khó về đích

NHÓM PHÓNG VIÊN

Ngày mới thật tốt lành bạn nhé!

(Kênh giáo dục)TP HCM: Công bố ban đầu về đăng ký nguyện vọng lớp 10

Từ số liệu đăng ký ban đầu này, thí sinh có thể điều chỉnh nguyện vọng vào các trường từ ngày 5-5 đến 11-5.

Năm nay, kỳ thi tuyển sinh lớp 10 sẽ diễn ra ngày 2 và 3-6. Kế hoạch này sớm hơn 10 ngày so với mọi năm,

Với lớp 10 thường, đối tượng tuyển sinh là HS tốt nghiệp THCS tại TP HCM trong độ tuổi quy định đều được tham gia dự tuyển sinh vào lớp 10 THPT công lập.

TP HCM: Công bố ban đầu về đăng ký nguyện vọng lớp 10

HS được đăng ký 3 nguyện vọng ưu tiên 1, 2, 3 để xét tuyển vào lớp 10 các trường THPT công lập (trừ Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, Trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa và Trường Phổ thông năng khiếu ĐH Quốc gia). Không được đổi nguyện vọng sau khi trúng tuyển.

Chi tiết đăng ký cụ thể, xem tại đây

Đặng Trinh

Ngày mới thật tốt lành bạn nhé!

(Kênh giáo dục)Cảnh cáo cô giáo khẻ tay học sinh vì buồn chuyện gia đình

Chiều 4-5, UBND huyện Tân Trụ, tỉnh Long An cho biết cô giáo Lê Thị Thu Thảo, giáo viên dạy âm nhạc Trường tiểu học Võ Văn Mùi, xã Đức Tân vừa nhận quyết định kỷ luật với hình thức cảnh cáo thông báo trong ngành giáo dục, do vi phạm đạo đức nhà giáo, đánh nhiều học sinh.

 Văn bản Chủ tịch UBND huyện chỉ đạo kỷ luật giáo viên đánh đòn nhiều học sinh

Văn bản Chủ tịch UBND huyện chỉ đạo kỷ luật giáo viên đánh đòn nhiều học sinh

Khoảng 14 giờ ngày 3-1, cô Thảo dạy lớp 5/1 học âm nhạc nhưng qua kiểm tra chỉ có 4 em đạt yêu cầu, còn lại 16 học sinh đều không thuộc bài hát. Cô “linh động” đưa ra 2 phương án, một là báo về cha mẹ, hai là bị đánh đòn. Các em đều chọn phương án 2. Mức phạt là 20 roi đánh vào bàn tay.

Một số em bị đánh đau quá rút tay lại nên bị cô Thảo tăng thêm hình phạt gấp đôi, gấp ba. Có em chịu đựng trên 50 cái khẻ tay nhưng về không dám báo cho cha mẹ biết.

Đến ngày 10-1, phụ huynh nghe con mình bị đánh nên trình báo sự việc đến lãnh đạo trường. Tại đây phụ huynh được giải thích là do các em lơ là môn học, thời gian này con cô Thảo bị bệnh phải vào viện điều trị và cô lại bị mất tiền, nên không thân thiện với học sinh trong lớp. Dù vậy, hơn một tháng sau, UBND huyện Tân Trụ mới biết được vụ việc từ phản ánh của báo chí.

Ngày 27-3, tập thể giáo viên nhà trường thống nhất đề nghị xử lý kỷ luật cô Thảo với hình thức cảnh cáo, do vi phạm về đạo đức nhà giáo. Tuy nhiên, hiện cô đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, vì vậy đầu tháng 5-2017 trường mới công bố quyết định kỷ luật.

Cô giáo Thảo được xem là cán bộ có năng lực của Trường tiểu học Võ Văn Mùi.

Tin-ảnh: H.Minh

Ngày mới thật tốt lành bạn nhé!

(Kênh giáo dục)Về đâu những dự án thí điểm hàng ngàn tỉ?

Trước khi Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) triển khai chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (dự kiến bắt đầu từ năm 2018), đã có rất nhiều ý kiến cho rằng dự án hàng ngàn tỉ này khó khả thi bởi sự mơ hồ, thiếu thực tế. Nếu không cẩn trọng, lại thêm một đề án giáo dục nữa sẽ phá sản như không ít những đề án thí điểm tốn kém tiền bạc công sức trước đây. Cái giá phải trả cho sự thiếu cẩn trọng trong giáo dục không phải chỉ là cái nhìn thấy ngay trước mắt mà tồn tại sau đó rất lâu, có khi là ảnh hưởng lên cả một thế hệ.

“Đẽo cày giữa đường”, chạy theo thị hiếu

Có lẽ nhức nhối nhất là lứa “chuột bạch” của chương trình phân ban THPT. Được khởi xướng từ năm 1993, chương trình học phân ban được chia làm 3 ban: ban tự nhiên (A), ban xã hội (C) và ban kỹ thuật (B). Trong đó ban B khi triển khai đã không thành công. Năm 1998, toàn bộ phương án phân ban của Bộ GD-ĐT đã bị xóa bỏ khi Luật Giáo dục được thông qua.

Năm 2003, chương trình phân ban mới được khởi động lại, chỉ có 2 ban, dự kiến là tự nhiên A (60% học sinh) và ban xã hội C (40% học sinh). Khi triển khai vào thực tế, lượng học sinh theo học ban A chiếm khoảng 90%, trong khi ban C chỉ có 10%. Thậm chí, tại các vùng khó khăn ở các tỉnh phía Bắc, học sinh lại có nguyện vọng học một ban với một số môn tự chọn khác. Trước tình hình này, thay vì đến năm 2003 triển khai đại trà chương trình - sách giáo khoa mới đối với lớp 10 theo hướng phân ban thì Quốc hội đã đồng ý để Chính phủ cho thêm 2 năm để nghiên cứu.

 Học sinh Trường THPT Mạc Đĩnh Chi (TP HCM) trong tiết học của chương trình phân ban.( Ảnh chụp tháng 4-2010) Ảnh: Tấn Thạnh

Học sinh Trường THPT Mạc Đĩnh Chi (TP HCM) trong tiết học của chương trình phân ban.( Ảnh chụp tháng 4-2010) Ảnh: Tấn Thạnh

Sau 2 năm thí điểm không thành công, Bộ GD-ĐT đã phải trình Thủ tướng Chính phủ phương án điều chỉnh chương trình thí điểm phân ban THPT. Theo phương án này, lớp 10 và 11 phân thành 2 ban như hiện nay. Đến lớp 12 sẽ phân ban sâu hơn, thành 4 ban tương ứng với 4 khối thi ĐH: A, B, C, D. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, phương án đến lớp 12 phân hóa sâu thành 4 ban chỉ là cách xoa dịu dư luận. Bốn ban này tương đồng với 4 khối thi ĐH. Nói cách khác, việc phân ban chỉ nhằm mục đích là ôn thi ĐH, chạy theo thị hiếu và mọi con đường đều dẫn đến ĐH.

Tuy nhiên, đến khi triển khai đại trà, việc phân ban lại được thiết kế thành 3 ban mới, gồm khoa học tự nhiên, khoa học xã hội - nhân văn và cơ bản (học theo chương trình “chuẩn” và tự chọn nâng cao theo khối thi ĐH, gọi là cơ bản A, C, D).

Nhận xét về sự thay đổi như chong chóng của Bộ GD-ĐT trong việc thực hiện phân ban, các chuyên gia giáo dục cho rằng chương trình phân ban qua các lần thí điểm thiếu hẳn một tư tưởng chỉ đạo nhất quán, xuyên suốt. Do thiếu lập luận khoa học vững chắc nên các nhà thiết kế chương trình vừa làm vừa nghe ngóng kiểu “đẽo cày giữa đường” và thất bại là điều được báo trước.

Một ví dụ cho cách làm chắp vá là tới tháng 9-2006 đã phải triển khai đại trà mà tháng 9-2005, Viện Chiến lược và chương trình giáo dục mới đề xuất bổ sung ban cơ bản bên cạnh 2 ban khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn theo thiết kế ban đầu của thí điểm lần 3. Việc phân ban “không giống ai” của nước ta đã biến các trường thành lò luyện thi ĐH, học sinh thi khối nào sẽ chọn ban tương ứng để học nâng cao các môn của khối thi đó.

Phi giáo dục vì học lệch, quá tải

Trong báo cáo giám sát về việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo đảm chất lượng và chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông hồi tháng 8-2013, GS Đào Trọng Thi, lúc đó là Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội cho rằng chủ trương phân ban ở cấp học THPT không thành công. Thống kê cho thấy từ năm học 2008-2009, cả nước có gần 84% học sinh lớp 10 học ban cơ bản, chỉ hơn 14% học sinh học ban khoa học tự nhiên, xấp xỉ 2% học sinh học ban khoa học xã hội và nhân văn.

Trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động, các nhà giáo giảng dạy tại các trường THPT lúc này nhớ lại: Ngày 15-8-2006 là hạn chót các trường THPT phải công bố kết quả phân ban học sinh lớp 10 tại trường mình. Thầy Trần Trung Kiên, nguyên Hiệu trưởng Trường THPT Mạc Đĩnh Chi (quận 6, TP HCM), kể lúc này hầu như giáo viên phải đi tập huấn liên tục về mục tiêu, hiệu quả, kể cả những điểm được coi là lý tưởng của chương trình. Số lần giáo viên phải đi tập huấn đếm không xuể.

Thế nhưng, ngay khi thời hạn đăng ký kết thúc, con số thu được hết sức ngỡ ngàng, hầu như đa số các trường đều có 100% học sinh đăng ký vào ban cơ bản. Ông Nguyễn Văn Ngai, nguyên Phó Giám đốc Sở GD-ĐT TP HCM, cho biết lúc này tại TP HCM, có tới 90% học sinh chọn không phân ban. Số học sinh chọn ban A rất ít và hầu như không có học sinh chọn ban C.

Thầy Trần Trung Kiên cho rằng một nguyên tắc cơ bản khi ban hành bất kỳ một chính sách giáo dục nào thì việc đầu tiên phải là hỏi ý kiến của đối tượng thực hiện và thụ hưởng. Chương trình phân ban cũng thế, thay vì hỏi học sinh và phụ huynh muốn gì, thì một số người tự… quyết luôn. Ông Kiên lý giải tâm lý bao đời nay của người Việt là muốn cho con vào ĐH, cơ hội vào ĐH thì chọn ban cơ bản và ban A là chắc ăn nhất. Nếu đã biết xu hướng này thì đáng ra phải làm sao để tác động cho học sinh thấy ĐH không phải là con đường duy nhất nhưng hậu quả đã đi ngược lại...

Theo ông Nguyễn Văn Ngai, cái tốt của chương trình phân ban là phát triển năng khiếu của người học vì người này có năng khiếu về những kiến thức tự nhiên, người khác có kiến thức xã hội. Vì thế, chấp nhận phân ban là phải chấp nhận tư tưởng môn chính, môn phụ nhưng thực tế khi triển khai, chương trình vướng quan điểm giáo dục phải toàn diện. Phân ban mà vẫn phải bảo đảm giáo dục toàn diện, bắt học sinh học đầy đủ dẫn đến nặng nề, quá tải. Theo cách phân ban thì hệ số điểm số các ban tương đương nhau, độ chênh giữa số giờ học, điểm số các môn giữa các ban chỉ khoảng 20% trong khi khối lượng kiến thức có độ chênh rất lớn.

8 năm công cốc!

Ông Trần Trung Kiên phân tích phân ban mà hệ số đánh giá như nhau là sai ngay từ bản chất ban đầu và rất hoang đường. Một đứa trẻ không thể giỏi toàn diện các môn. Nếu chỉ giỏi toán thì môn văn phải có cách đánh giá thấp hơn. “Ngày trước giải phóng, chúng tôi học phân ban toán, lúc này hệ số toán tính là 5 thì các môn còn lại chỉ cần hệ số 1, 2 là đạt” - ông Kiên nói.

Thực tế kết quả giám sát tại các địa phương cũng cho thấy hầu hết các trường THPT, kể cả nhiều trường THPT chuyên đều chỉ tổ chức dạy học theo ban cơ bản kết hợp với dạy nâng cao một số môn thi ĐH theo lựa chọn của học sinh.

Nhiều chuyên gia giáo dục nhận định trong khi thực hiện, Bộ GD-ĐT nên nhìn ra vấn đề bất hợp lý để có hướng xử lý phù hợp. Đằng này bộ này cứ cố duy trì chương trình tiêu tốn nhiều kinh phí trong trạng thái dật dờ, như kiểu xài cho hết tiền rồi muốn ra sao cũng được!

Một chương trình mang tầm ảnh hưởng đến hàng triệu học sinh không đi đến đâu từ năm 2006 đến 2014. Vào năm 2014, đề thi tuyển sinh vào ĐH, CĐ chỉ còn phần kiến thức trong chương trình cơ bản, đây được xem dấu chấm hết cho chương trình phân ban. Theo GS Đào Trọng Thi, việc thực hiện phân ban ở cấp THPT đã không thành công. Nói cách khác, việc phân ban đã thất bại. Thế nhưng, trong mọi báo cáo công khai của Bộ GD-ĐT về tình hình giáo dục phổ thông đều không thấy bộ này nhắc gì đến kết quả của mô hình phân ban, hiệu quả hay hậu quả của nó.

Quá cứng nhắc

Theo ông Đỗ Ngọc Thống, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục trung học - Bộ GD-ĐT, vào tháng 7-2014, Bộ GD-ĐT có tổng kết và đánh giá về chương trình phân ban, thừa nhận hạn chế của chương trình phân ban là quá cứng nhắc do phân thành 3 ban không đáp ứng được nguyện vọng của học sinh, không đáp ứng yêu cầu gắn với ngành nghề. Hơn nữa, chương trình phân ban cũng không bám sát mục đích phân ban ngay từ đầu; việc ra đề, thi cử cũng không phù hợp.

Nhiều chuyên gia giáo dục và giáo viên khi nhớ lại chương trình này đều nói thẳng đây là chương trình nhiều “không”, thiếu thực tế. Nhưng vấn đề đặt ra là tại sao trong suốt một thời gian dài, từ năm 2006-2014, Bộ GD-ĐT mới đưa ra đánh giá cuối cùng. Trong đánh giá này không đưa ra hướng khắc phục, cũng không có hướng kế thừa hay vứt bỏ những hạn chế của một mô hình giáo dục ở tầm quốc gia?

Kỳ tới: 87,6 triệu USD, thí điểm rồi dừng!

NHÓM PHÓNG VIÊN

Ngày mới thật tốt lành bạn nhé!

(Kênh giáo dục)Tiếc nuối với nghề phổ thông

Ở lớp 11 với thời lượng 105 tiết/ năm học (3 tiết/tuần); còn ở lớp 8 có thời lượng 70 tiết /năm học (2 tiết/tuần).

Theo đó, học sinh chọn một trong số 11 nghề phổ thông mà Bộ GD-ĐT có ban hành tài liệu dạy học, bao gồm: Làm vườn, nuôi cá, trồng rừng, gò, điện dân dụng, điện tử dân dụng, sửa chữa xe máy, cắt may, nấu ăn, thêu tay và tin học văn phòng; hoặc chọn trong một số nghề theo tài liệu của Sở GD-ĐT.

Trong dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể mà Bộ GD-ĐT vừa công bố, cho thấy: Ở lớp 8 và lớp 11 chỉ có các môn học bắt buộc, các môn học bắt buộc có phân hoá; các môn học tự chọn; các môn học tự chọn bắt buộc và chuyên đề học tập; còn nghề phổ thông không còn là hoạt động giáo dục cho học sinh.

Theo Công văn 8608 của Bộ GD-ĐT thì hoạt động giáo dục nghề phổ thông có nhiệm vụ: “Hình thành cho học sinh một số kỹ năng sử dụng công cụ, kỹ năng thực hành kỹ thuật theo quy trình công nghệ để làm ra sản phẩm theo yêu cầu của giáo dục nghề phổ thông và phát triển nhu cầu vận dụng kiến thức vào thực tiễn ”.

Thế nên, sẽ nhiều tiếc nuối, nếu như không còn hoạt động giáo dục nghề phổ thông ở cả 2 giai đoạn giáo dục cơ bản và giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể. Bởi lẽ, ngoài 11 nghề phổ thông như hiện nay, nếu như Bộ GD-ĐT bổ sung thêm một số nghề thuộc các lĩnh vực như: Giáo dục, y tế, xây dựng, giao thông vận tải, bưu chính- viễn thông, tài chính- tiền tệ, kinh doanh - dịch vụ, an ninh- quốc phòng, công nghệ thông tin, các nghề truyền thống ở địa phương…; thì ít nhất mỗi học sinh còn được lựa chọn một nghể phù hợp với sở thích, phù hợp với năng khiếu và năng lực của thân, phù hợp với nhu cầu sử dụng lao động ở địa phương để tìm hiểu.

Sau khi tìm hiểu, các em sẽ định hướng chọn một nghề phù hợp để bước vào thị trường lao động hoặc tiếp tục vào học các trường nghề, trường đại học sau bậc học phổ thông. Qua đó góp phần vào việc phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông.

TRẦN VŨ

Ngày mới thật tốt lành bạn nhé!

(Kênh giáo dục)Không để xảy ra sai sót trong kỳ thi THPT quốc gia

Theo đó, Công đoàn ngành GD-ĐT TP HCM đề nghị công đoàn cơ sở thực hiện tốt các nội dung: Phối hợp với chuyên môn đồng cấp quán triệt và tuyên truyền vận động cán bộ, nhà giáo, người lao động thực hiện nghiêm túc Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường chỉ đạo tổ chức kỳ thi THPT quốc gia năm 2017 và Bộ GD-ĐT về việc phối hợp chỉ đạo tổ chức kỳ thi THPT quốc gia và tuyển sinh ĐH, CĐ năm 2017; phổ biến đầy đủ quy chế thi THPT quốc gia, quy chế tuyển sinh ĐH, CĐ hệ chính quy, các văn bản hướng dẫn của Bộ GD- ĐT đến cán bộ, nhà giáo, người lao động; tăng cường công tác tuyên truyền nhằm thông tin kịp thời, đầy đủ về mục đích, ý nghĩa và những nội dung cơ bản của kỳ thi, nhất là những điểm mới trong tổ chức thi và tuyển sinh ĐH, CĐ hệ chính quy năm 2017; tuyên truyền, vận động để cán bộ, nhà giáo, người lao động được điều động làm nhiệm vụ ở các hội đồng in sao đề thi, coi thi, chấm thi, phúc khảo nâng cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện nghiêm túc quy chế và các văn bản hướng dẫn của bộ, sở về công tác thi, không để xảy ra các hiện tượng tiêu cực hoặc sai sót trong quá trình tổ chức thực hiện kỳ thi; phối hợp chuẩn bị tốt các điều kiện, tổ chức tốt kỳ thi và tuyển sinh năm 2017 theo tinh thần đổi mới, đảm bảo trung thực, an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho thí sinh.

Đ. Trinh

Ngày mới thật tốt lành bạn nhé!

(Kênh giáo dục)Đổi mới gấp gáp, giáo viên lo lắng

Hiệu trưởng một trường THPT đóng tại quận Cầu Giấy, Hà Nội khẳng định nếu không chuẩn bị tốt về đội ngũ giáo viên, không thể nói đến sự thành công của chương trình phổ thông tổng thể mà Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) kỳ vọng.

Chưa hình dung được phải làm gì

Thế nhưng, các giáo viên hiện vẫn rất mơ hồ với sự đổi mới này. “Qua trao đổi, tôi cảm giác các giáo viên vẫn chưa hình dung ra được những yêu cầu của chương trình mới. Trên thực tế, chương trình mới nhưng con người cũ, cách làm cũ thì chương trình sẽ gặp rất nhiều khó khăn, nếu không muốn nói là sẽ thất bại” - hiệu trưởng này thẳng thắn. Vị này cũng cho rằng với những yêu cầu mới mà dự thảo đưa ra chắc chắn cán bộ quản lý cũng như giáo viên đều vất vả hơn. Bên cạnh đó, cán bộ quản lý thì phải điều hành, tính toán thời gian hợp lý cho học hai buổi; ngoài ra còn phải sắp xếp thời khóa biểu, ngày giờ giảng dạy của giáo viên cho công bằng, hợp lý. Giáo viên thì phải đổi mới cả về phương pháp cũng như trau dồi kiến thức để đáp ứng được yêu cầu mới.

 Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu cầu các địa phương chủ động đặt hàng các cơ sở đào tạo giáo viên đáp ứng nhu cầu đổi mới. Trong ảnh: Sinh viên Trường ĐH Sư phạm TP HCM trong giờ học Ảnh: TẤN THẠNH

Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu cầu các địa phương chủ động đặt hàng các cơ sở đào tạo giáo viên đáp ứng nhu cầu đổi mới. Trong ảnh: Sinh viên Trường ĐH Sư phạm TP HCM trong giờ học Ảnh: TẤN THẠNH

Theo dự kiến, năm học 2018-2019 sẽ triển khai chương trình mới nhưng đến thời điểm này, giáo viên vẫn chưa có thông tin cụ thể gì. Đó là chưa kể đến việc các trường ĐH, CĐ sư phạm đáng lẽ phải “đi trước một bước”, vận hành chương trình mới từ 3-4 năm về trước để kịp thời đào tạo ra đội ngũ cán bộ giảng dạy theo cách mới nhưng đến nay vẫn giẫm chân tại chỗ.

Nhiều giáo viên còn bày tỏ sự lo lắng vì chương trình mới có môn “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo” nhưng đến giờ, giáo viên vẫn chưa hình dung được môn học này như thế nào. Băn khoăn lớn nhất của nhiều giáo viên là không biết Bộ GD-ĐT đã xây dựng xong chương trình khung chưa? Bao giờ sách giáo khoa đến tay giáo viên để được tập huấn rồi giảng dạy cho học sinh như tiến độ đặt ra?

Cân đối lại đội ngũ

Trao đổi với phóng viên về những lo lắng về khả năng tập huấn, bồi dưỡng giáo viên và chuẩn bị cơ sở vật chất để triển khai chương trình mới từ đầu năm học 2018 - 2019, GS Nguyễn Minh Thuyết, Tổng Chủ biên Chương trình phổ thông tổng thể, thừa nhận đây là những lo lắng rất có cơ sở. Tiếp thu ý kiến của các chuyên gia và nhân dân, ban phát triển chương trình kiến nghị Bộ GD-ĐT triển khai chương trình mới theo từng bước. Cụ thể, trong năm học 2018- 2019, cho triển khai đại trà chương trình mới ở lớp 1; thực nghiệm ở lớp 2, lớp 6 và lớp 10.

Trong năm học tiếp theo, triển khai đại trà ở lớp 2 và lớp 6, dạy thực nghiệm lớp 3, lớp 7 và lớp 10. Năm thứ ba, triển khai đại trà ở lớp 3, lớp 7, lớp 10... Đến năm học 2022-2023, chương trình mới sẽ được dạy ở tất cả các lớp. Như vậy, theo GS Thuyết, các địa phương sẽ có đủ thời gian để chuẩn bị giáo viên, trang thiết bị dạy học và cơ sở vật chất để từng bước đáp ứng yêu cầu của chương trình mới.

Cũng liên quan đến đào tạo giáo viên, ông Hoàng Đức Minh, Cục trưởng Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý giáo dục, cho biết hiện bộ đang thực hiện quy hoạch mạng lưới các trường ĐH, CĐ sư phạm một cách hợp lý, bảo đảm cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các địa phương với các trường khu vực, các trường sư phạm trọng điểm. Đồng thời tổ chức thực hiện tốt quy hoạch, các cơ sở bồi dưỡng nhà giáo phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn tới.

Trên cơ sở dự báo về nhu cầu giáo viên và căn cứ vào chương trình giáo dục phổ thông mới, bộ sẽ cân đối lại chỉ tiêu tuyển sinh, tăng chỉ tiêu đào tạo các loại hình giáo viên còn thiếu, bảo đảm đủ giáo viên cho các môn học: ngoại ngữ, âm nhạc, mỹ thuật, thể dục, nghệ thuật, công nghệ, tin học, giáo dục quốc phòng, giáo dục công dân… tạo sự cân đối trong cơ cấu đội ngũ giáo viên các cấp bậc học.

Ông Minh cũng nhấn mạnh các địa phương cần chủ động và chịu trách nhiệm cụ thể hóa các chương trình, kế hoạch của bộ trong việc triển khai thực hiện các công việc liên quan, lưu ý bố trí giáo viên đủ và đúng đối tượng để đi bồi dưỡng cũng như đào tạo lại đáp ứng yêu cầu chương trình phổ thông mới theo lộ trình quy định. Các địa phương cũng cần chủ động phối hợp, liên kết với các cơ sở đào tạo giáo viên trên địa bàn cũng như các cơ sở khác ngoài địa bàn để đặt hàng đào tạo đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu về số lượng, cơ cấu, chất lượng theo yêu cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông của địa phương.

Tiếp thu để giảm tải

GS Nguyễn Minh Thuyết cho rằng số lượng môn học mới không nhiều hơn các nước tiên tiến. Chương trình tổng chỉ là bộ khung; để đánh giá mức độ nặng nhẹ của chương trình, cần phải có đề cương cụ thể của các môn học.

Tuy nhiên, GS Thuyết khẳng định tiếp thu ý kiến phê bình, ban phát triển chương trình dự kiến báo cáo Hội đồng Thẩm định quốc gia không tổ chức dạy môn thế giới công nghệ ở các lớp 1, 2; chỉ bắt đầu dạy tin học và tìm hiểu công nghệ từ lớp 3. Điều này cũng nhằm giảm áp lực phải trang bị phòng máy tính cho các trường tiểu học ngay từ năm đầu tiên triển khai chương trình mới. Số giờ học ở các lớp 8, 9, 10 cũng sẽ được nghiên cứu để giảm xuống dưới 30 tiết/tuần.

YẾN ANH

Ngày mới thật tốt lành bạn nhé!

(Kênh giáo dục)Mất việc, giáo viên hợp đồng phản ứng

Sáng 3-5, hàng chục giáo viên bậc THPT đã kéo đến Sở Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) tỉnh Quảng Nam kêu cứu. Họ cho biết đã dạy hợp đồng ở các trường của tỉnh này từ 36 tháng trở lên, thậm chí 15 năm nên ước mơ một ngày được vào biên chế. Đầu năm 2016, họ hết sức mừng khi Sở GD-ĐT ban hành kế hoạch hợp đồng với giáo viên đã hoặc đang được các trường trên địa bàn hợp đồng dạy theo tiết.

Kế hoạch hợp đồng nêu rõ đối tượng xét hợp đồng là giáo viên đã hoặc đang được các trường THPT công lập, phổ thông dân tộc nội trú hợp đồng giảng dạy (trả lương theo tiết) từ 36 tháng trở lên (tính đến ngày 30-11-2015), không yêu cầu phải có thời gian đóng BHXH. Văn bản này cũng lưu ý “giáo viên đang được các trường THPT công lập, phổ thông dân tộc nội trú hợp đồng giảng dạy có đóng BHXH vẫn được tham gia xét tuyển”.

Sau đó, các giáo viên đủ điều kiện đã nộp hồ sơ xét tuyển nhưng không thấy hồi âm. Sau này, kế hoạch hợp đồng nói trên bị hủy nhưng các giáo viên cũng không nhận được thông báo. Sau đó, Sở GD-ĐT xét tuyển giáo viên nhưng các giáo viên hợp đồng không được ưu tiên gì.

 Các giáo viên phản ánh sự việc với báo chí

Các giáo viên phản ánh sự việc với báo chí

Theo các giáo viên, trong đợt xét tuyển biên chế vừa qua, trong số 116 giáo viên hợp đồng trên 36 tháng chỉ có 6 người trúng tuyển.

Trao đổi với phóng viên Báo Người Lao Động, ông Hà Thanh Quốc, Giám đốc Sở GD-ĐT tỉnh Quảng Nam, cho biết sở này rất quan tâm đến các giáo viên đang dạy theo dạng hợp đồng. Vào các năm 2009 và 2011, Sở GD-ĐT đã 3 lần xét tuyển giáo viên hợp đồng vào biên chế và đều căn cứ vào các quy định hiện hành, trong đó có kết quả học tập. Nhiều ứng viên có kết quả học tập thấp nên không trúng tuyển, kéo dài cho đến thời điểm này.

Năm 2016, Sở GD-ĐT muốn tạo điều kiện nhận vào biên chế 110 giáo viên hợp đồng trên 36 tháng nhưng theo luật, giáo viên phải đóng BHXH trên 36 tháng liên tục mới được xét đặc cách trong khi các giáo viên này đều dạy hợp đồng theo tiết, không ai đóng BHXH nên đành chịu.

Cũng theo ông Quốc, dù BHXH không đồng tình nhưng trong văn bản tham mưu cho UBND tỉnh, ông vẫn giữ quan điểm xét tuyển đặc cách cho 110 giáo viên hợp đồng trên 36 tháng. Tuy nhiên, sau đó UBND tỉnh không đồng ý.

Giữa hai phương án là tổ chức thi tuyển và xét tuyển cạnh tranh, Sở GD-ĐT nhận thấy phương án xét tuyển cạnh tranh có lợi hơn cho giáo viên hợp đồng nên chọn phương án này. Vào các ngày 22 và 23-2, có 995 ứng viên đăng ký xét tuyển 116 chỉ tiêu, đến thời điểm này mới công bố điểm chứ chưa thông báo kết quả chính thức. Nhiều người tra cứu điểm biết không trúng tuyển nên phản ứng.

Thiếu bao nhiêu, tuyển bấy nhiêu

Ngày 3-5, ông Lê Tuấn Tứ, Giám đốc Sở GD-ĐT tỉnh Khánh Hòa, cho biết tỉnh này đã bỏ hình thức hợp đồng với giáo viên do các trường không có nguồn để trả lương. Ngoài ra, việc hợp đồng mà không thông báo cho Sở GD-ĐT không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi giáo viên mà còn không minh bạch trong khâu tuyển dụng. Các trường thiếu giáo viên thì báo cáo, thiếu bao nhiêu sở tuyển bấy nhiêu. Hằng năm, sau khi luân chuyển giáo viên xong, sở sẽ tuyển dụng ở các vị trí có nhu cầu.

K.Nam

Bài và ảnh: TRẦN THƯỜNG

Ngày mới thật tốt lành bạn nhé!

(Kênh giáo dục)Nỗi lo giám thị

Sau khi kiểm tra, xác minh sự việc, hội đồng kỷ luật của Trường THPT Nguyễn Sỹ Sách đã quyết định nâng mức kỷ luật đối với cô Hằng từ khiển trách lên mức cảnh cáo.

Ắt hẳn, chúng ta vẫn chưa quên, những biểu hiện tiêu cực xảy ra ở một hội đồng coi thi tốt nghiệp THPT thuộc tỉnh Hà Tây cũ, năm 2006, trong đó có sự tiếp tay, buông bỏng kỷ cương phòng thi của một số giám thị coi thi đã bị thầy giáo Đỗ Việt Khoa ghi hình, tố cáo.

Lãnh đạo hội đồng coi thi và hàng loạt giáo viên coi thi tại hội đồng coi thi Trường THPT dân lập Đồi Ngô (Bắc Giang) năm 2012 bị xử lý kỷ luật do có hành vi “gà bài”, ném tài liệu, để thí sinh ngang nhiên, tự do “quay” bài trong phòng thi, từng gây bức xúc dư luận xã hội. Từ một số vụ việc tiêu cực cụ thể nêu trên đã gợi lên cho đội ngũ thầy, cô giáo chúng ta nhiều suy nghĩ, trăn trở về công tác tổ chức coi thi hiện nay.

 Kiểm tra hồ sơ thí sinh trươc khi bước vào kỳ thi THPT quốc gia. Ảnh: Hoàng Triều

Kiểm tra hồ sơ thí sinh trươc khi bước vào kỳ thi THPT quốc gia. Ảnh: Hoàng Triều

Trước khi tiến hành tổ chức một kỳ thi, hội thi nào đó của ngành giáo dục, các ban, hội đồng coi thi đều dành một thời gian nhất định để triển khai, quán triệt rất kỹ về quy chế, quy định của kỳ thi, hội thi cho mọi cán bộ, giám thị coi thi. Quy định chặt chẽ, tập huấn nghiêm túc, ban bệ coi thi đầy đủ, nhưng không hiểu sao một số cán bộ, giáo viên làm giám thị coi thi vẫn mắc sai phạm, coi thường quy chế. Là người trong cuộc, chúng tôi chẳng lạ gì những chuyện “động trời” sau khi kết thúc công việc coi thi. Gặp gỡ đồng nghiệp, anh em, nhiều giáo viên lại rất tự hào, hả hê khi kể về những “ thành tích” của mình từng “gà bài”, “giúp đỡ” thí sinh này; con, em phụ huynh kia. Không ít em học sinh đi thi về vạch đủ “tội” của giám thị , nào là thiếu công bằng, chỉ bài cho bạn A, bạn B; nào là lấy bài của những em học giỏi, làm tốt đưa cho “gà” của mình chép; nào là bỏ phòng thi ra bên ngoài nói chuyện, làm việc riêng.

Càng nghe đồng nghiệp, học sinh, phụ huynh phơi bày sự thật coi thi của giáo viên mình, tôi càng thấy xót xa, buồn lòng. Những động cơ, biểu hiện sai phạm của giám thị coi thi đều đáng lên án, vì chính họ “ giết chết” sự tôn nghiêm của quy chế, pháp luật, vì chính họ gây nên tình trạng thiếu công bằng trong thi cử, trong giáo dục. Hai kỳ thi lớn, thi tuyển sinh vào lớp 10 và kỳ thi THPT quốc gia năm 2017 sắp đến gần, công tác tổ chức coi thi cần được thực hiện một cách triệt để, đúng quy chế, mọi biểu hiện tiêu cực, sai trái của cán bộ, giáo viên làm nhiệm vụ coi thi đều bị phát hiện, khống chế và xử lý nghiêm túc, kịp thời. Đó là kỳ vọng, mong mỏi tha thiết của nhiều thầy, cô giáo, học sinh, phụ huynh và dư luận cả nước.

ĐỖ TẤN NGỌC

Ngày mới thật tốt lành bạn nhé!

(Kênh giáo dục)Bỏ quên đề án ngoại ngữ quốc gia?

Một số chuyên gia giáo dục khi góp ý về dự thảo Chương trình phổ thông tổng thể do Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) công bố đã khá ngạc nhiên bởi dự thảo không hề nhắc đến yêu cầu dạy và học ngoại ngữ trong các bậc học. Trong đó đặc biệt bỏ quên việc đánh giá tổng kết để triển khai những hướng đi tiếp theo của Đề án Ngoại ngữ quốc gia 2020.

Không rõ học tiếng Anh kiểu nào

Trong dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, học sinh (HS) phổ thông bắt buộc phải học một ngoại ngữ (gọi là ngoại ngữ 1) và được chọn thêm ít nhất một ngoại ngữ khác (gọi là ngoại ngữ 2) theo nguyện vọng của mình và khả năng đáp ứng của cơ sở giáo dục. Ngoại ngữ 1 là môn học bắt buộc từ lớp 3 đến lớp 12.

GS Nguyễn Minh Thuyết, Tổng Chủ biên Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, giải thích rằng với ngoại ngữ 1, HS vẫn bắt đầu học từ năm lớp 3 như chương trình cũ. Bởi Việt Nam có số lượng các dân tộc rất đa dạng, nhiều HS chỉ quen nói tiếng dân tộc, nếu đưa thêm môn ngoại ngữ ngay từ lớp 1 sẽ quá tải đối với HS vùng dân tộc thiểu số. Ông Thuyết cũng cho rằng nếu cơ sở giáo dục có điều kiện thuận lợi có thể tổ chức học ngoại ngữ 1 bắt đầu từ lớp 1.

Một giờ học tiếng Anh của học sinh tại TP HCM Ảnh: TẤN THẠNH

Một giờ học tiếng Anh của học sinh tại TP HCM Ảnh: TẤN THẠNH

Một chuyên gia giáo dục cho rằng điều dễ nhận thấy nhất là sự thiếu đồng bộ, tính liên kết khi đặt yêu cầu, mục tiêu của Đề án Ngoại ngữ 2020 trong tổng thể dự thảo chương trình phổ thông đối với việc dạy và học ngoại ngữ trong các cơ sở giáo dục.

Bà Phạm Thúy Hà, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi (quận 4, TP HCM), cho hay hiện trường đang thực hiện 3 chương trình tiếng Anh, gồm tiếng Anh tích hợp, tiếng Anh theo đề án và tiếng Anh tăng cường. Tiếng Anh theo đề án được thực hiện từ lớp 1 đến lớp 5 với thời lượng 4 tiết/tuần. So sánh với chương trình mới thì ngoại ngữ 1 là môn học bắt buộc nhưng thực hiện từ lớp 3 thì không biết ra sao.

Bà Phạm Thúy Hà cũng cho rằng tại TP HCM, riêng với tiếng Anh, phụ huynh và HS vẫn chuộng tiếng Anh tăng cường; còn với tiếng Anh đề án, do không phải đóng học phí nên phụ huynh cũng không phàn nàn gì khi cho con theo học. Trong khi đó, một hiệu trưởng tại quận 1, TP HCM cho rằng ngoại ngữ 1 mà dự thảo chương trình phổ thông đang nhắc đến chính xác là ngoại ngữ nào, tiếng Anh đề án hay tiếng Anh tăng cường vì mỗi địa phương có những đặc thù riêng.

Dễ dãi trong chiến lược đào tạo ngoại ngữ

Nhiều chuyên gia giáo dục cho rằng chưa cần bàn đến tính hiệu quả của đề án ngoại ngữ quốc gia nhưng một dự thảo tổng thể về chương trình phổ thông mà không chú trọng vai trò của ngoại ngữ là thiếu sót lớn. Điều đó thể hiện ở việc thiếu tính kế thừa, phát huy, kể cả mạnh dạn vứt bỏ những hạn chế của một đề án ngoại ngữ mang tầm quốc gia được triển khai từ năm 2008.

Ông Nguyễn Văn Hiếu, Phó Giám đốc Sở GD-ĐT TP HCM, trong hội nghị góp ý dự thảo chương trình phổ thông tổng thể cho biết việc phân bổ số tiết ngoại ngữ bậc trung học chỉ có 3 tiết/tuần thì khó có thể thực hiện mong muốn biến ngoại ngữ thành thế mạnh của người dân Việt Nam.

Một cán bộ phụ trách giáo dục tiểu học của một phòng GD-ĐT tại TP HCM nhận xét thay vì khoanh vùng để đặt ra yêu cầu về ngoại ngữ cho phù hợp thì chương trình lại ôm đồm tất cả các địa phương với nhau; “dễ dãi” trong chiến lược về ngoại ngữ. Bộ GD-ĐT có thể gom các tỉnh, thành không thể thực hiện được ngoại ngữ 1 từ lớp 1 để bố trí môn học phù hợp; còn các địa phương có điều kiện thì ngược lại. “Trong khi đó, nếu muốn cải thiện việc dạy và học ngoại ngữ trong các cơ sở giáo dục như hiện nay, tiếp nối Đề án 2020 thì phải quyết liệt đối với ngoại ngữ, tập trung đầu tư, thực hiện cho tốt một ngoại ngữ đã, rồi hãy tính đến các ngoại ngữ 2” - vị này nói.

Ông Ngô Xuân Đông - Trưởng Phòng GD-ĐT quận 7, TP HCM - nhận xét: Ngay ngoại ngữ 1 mà nhiều trường còn khó khăn thì nói gì đến ngoại ngữ 2. Hơn nữa, đã là môn tự chọn thì phải có nhiều môn. Ở bậc tiểu học, môn học tự chọn chỉ có duy nhất môn tiếng dân tộc thiểu số, bậc THCS thì môn tự chọn có tiếng dân tộc thiểu số và môn ngoại ngữ 2.

Không dám nghĩ đến ngoại ngữ 2

Tại TP HCM, dù là địa phương có điều kiện hơn các tỉnh, thành khác nhưng không phải tất cả quận, huyện đều có thể tổ chức việc dạy và học ngoại ngữ thuận lợi. Ông Trần Văn Toản, quyền Trưởng Phòng GD-ĐT huyện Củ Chi, thông tin ở huyện Củ Chi hiện nay vẫn còn một số trường chưa thực hiện dạy ngoại ngữ cho HS vì không tuyển được giáo viên. Một số trường khác có thực hiện nhưng chỉ ở vài khối lớp chứ không phải 100% HS được học thì làm sao nghĩ đến ngoại ngữ 2.

Đặng Trinh

Ngày mới thật tốt lành bạn nhé!